Các phương pháp giúp bé phát triển khỏe mạnh và lịch chủng ngừa

Sức khỏe của bé liên quan tinh tế với tình trạng tâm lý và sự phát triển toàn thân. Bằng cách nuôi dưỡng và đáp ứng kịp thời các nhu cầu của bé, bạn hoàn toàn có thể giúp bé phát triển thành một đứa trẻ khỏe mạnh và hạnh phúc. Âu yếm và vuốt ve bé thường xuyên sẽ giúp ích cho mọi tiến trình từ sự tái tạo tế bào cho đến việc tiêu hóa. Việc đảm bảo không để bé buồn bã hoặc khó chịu cũng giúp thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển khỏe mạnh.

Các phương pháp giúp bé phát triển khỏe mạnh và lịch chủng ngừa


Nâng cao sức khỏe của bé

Để bé luôn được mạnh khỏe bạn cần thực hiện những điều sau đây:

  • Cho bé bú sữa mẹ: điều này giúp bé khởi đầu cuộc sống một cách tốt nhất bởi vi sữa mẹ chứa nhiều kháng thể giúp bảo vệ bé khỏi bệnh trong những tháng đầu tiên và kích thích hệ miễn dịch phát triển.
  • Không hút thuốc lá khi ở gần bé. Nếu bạn luôn giữ bé tránh xa bầu không khí ô nhiễm, bạn sẽ làm giảm nguy cơ bé bị mắc các bệnh về đường hô hấp hoặc dị ứng, chẳng hạn như suyễn.
  • Tránh cho bé ăn thức ăn đặc quá sớm. Trước 4 tháng tuổi, hệ tiêu hóa của bé chưa đủ trưởng thành để tiêu hóa các thức ăn khác ngoài sữa mẹ hoặc sữa pha chế theo công thức. Nếu cho bé ăn thức ăn đặc quá sớm thận của bé sẽ bị tổn thương và tăng nguy cơ mắc các bệnh di ứng.
  • Đưa bé đi khám sức khỏe định kỳ đều đặn, không bỏ lỡ buổi nào trong lịch khám.
  • Thảo luận với bác sĩ hoặc nhân viên y tế về lịch chủng ngừa một cách cụ thể.

Chủng ngừa
Khi bé được khoảng 8 tuần tuổi, người ta có thể yêu cầu đưa bé đi chủng ngừa lần đầu tiên. Khi chủng ngừa, bé được cho một loại vacxin chứa một loại virus gây bệnh nhưng đã được làm cho vô hại. Điều này giúp bé tạo ra kháng thể, có thể có thể bảo vệ bé khỏi bệnh trong tương lai. Bé có thể sốt nhẹ sau đó và bị một nốt cứng nhỏ tại vị trí tiêm. Điều này sẽ tự hết trong vài ngày và bạn không cần phải lo lắng
Vắcxin
Chống lại bệnh
Thời gian chủng ngừa
Phương pháp
DTP (Vawscxin bộ ba)
Bạch hầu, uốn ván, ho gà
Hai, bốn và sáu tháng
Tiêm
PV
Bại liệt
Hai, bốn và sáu tháng
Tiêm hoặc uống giọt
Hib (Heamophilus influenza tuysp B)
Hib viêm màng não, viêm nắp thanh quản, nhiễm trùng huyết, viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm xương tủy, viêm phổi…
Hai, bốn, sáu tháng và một mũi cho trẻ trên một tuổi
Tiêm
Hep B
Viêm gan siêu vi B (nếu mẹ âm tính)
Hai, ba và sáu tháng
Tiêm
Pneumococcal (PVC)
Bệnh phế cầu
Hai, bốn và sáu tháng
Tiêm

Kiểm tra sức khỏe và các biểu đồ theo dõi

Đến bác sĩ hoặc các cơ sở y tế địa phương để kiểm tra thường xuyên quá trình phát triển của con bạn sẽ giúp bạn an tâm rằng bé vẫn khỏe mạnh và tạo điều kiện cho bạn bày tỏ những vấn đề phát sinh hằng ngày cũng như những lo lắng về sự phát triển của bé.


Kiểm tra sự phát triển

Người ta sẽ thực hiện một số cuộc kiểm tra định kỳ để đánh giá sự phát triển của bé vào những thời điểm khác nhau trong năm đầu tiên sau khi bé sinh ra đời.

Kết quả kiểm tra này cùng với những ghi chép về chủng ngừa sẽ được ghi lại trong sổ sức khỏe của bé. Thời điểm kiểm tra thay đổi, theo những hướng dẫn chung bạn có thể thực hiện lúc bé khoảng 6 tới 8 tháng tuổi, 4 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng.

Kiểm tra sự phát triển trong 6 tuần đầu

Đợt thăm khám sức khỏe trong 6 tuần đầu tiên chủ yếu là kiểm tra về sức khỏe thể chất, vấn đề bú mớm và tình hình phát triển chung của bé.

Sự kiểm tra này không theo một quy định cụ thể và không giống nhau ở mọi nơi. Thông thường bé sẽ được cân, đo vòng đầu, chiều dài. Bạn được yêu cầu cởi đồ bé ra để cân đo, khớp háng cũng cần được kiểm tra vì trật khớp háng đôi khi không được phát hiện lúc mới sinh. Sau đó bác sĩ sẽ nghe tim, phổi và khám mắt bằng đèn soi. Bé cũng được khám tai và miệng để phát hiện nhiễm trùng.

Nhiều phản xạ lúc mới sinh chẳng hạn như phản xạ cầm nắm có thể biến mất trong thời điểm này, nên bác sĩ sẽ khám lại các phản xạ này. Bác sĩ cũng sẽ khám khả năng điều khiển đầu của bé vì đây là một dấu hiệu quan trọng cho sự phát triển. Sự phát triển vận động bắt đầu từ đầu trở xuống thân minh, tay, chân (vì vậy không giống như người ta nghĩ, khả năng giữ vững được đầu chính là bước đầu tiên của quá trình học vận động).

Những câu hỏi bác sĩ có thể hỏi bạn

Khi thực hiện thăm khám bé, các bác sĩ và nhân viên y tế có thể sẽ không khám bé một cách chính thức mà thay vào đó sẽ hỏi bạn những câu hỏi sau về bé:

  • Bé bú như thế nào?
  • Bạn có chú ý về khả năng nghe của bé hay không?
  • Bé có nhìn vào mặt bạn hay có dõi mắt dõi theo những đồ vật di động hay không?
  • Bé có hay cười với bạn không?
  • Bé có bị giật mình bởi những tiếng động lớn hay không?

Bạn cũng có thể được hỏi về những vấn đề rắc rối mà bạn đang gặp phải bởi vì điều quan trọng đối với sự phát triển sức khỏe của bé nằm trong mối quan hệ giữa bé với bạn và gia đình. Bác sĩ cũng sẽ ghi lại lịch chủng ngừa cho bé thường là vào khoảng 6 tuần tuổi, 2 tháng, 4 tháng và 6 tháng.

Biểu đồ cân nặng và chiều cao



Ghi nhận cân nặng và chiều cao cung cấp cho bạn các thông tin quan trọng về sự tăng trưởng chung của bé.

Trẻ em có sự tăng trọng rất khác nhau nhưng nhìn chung các bé tăng khoảng 100 - 175 gr mỗi tuần trong vài tuần lễ đầu (mặc dù tuần đầu sau sinh bé có thể bị giảm cân). Sau thời điểm này, bé tăng khoảng 450 - 900 gr cho đến 6 tháng tuổi. Bé thường tăng cân nhiều nhất trong khoảng từ 6 đến 9 tháng tuổi.

Nếu bạn cân bé mỗi tuần, bạn có thể sẽ nhận thấy rằng một số tuần bé tăng cân và một số tuần khác thì không. Điều này là hoàn toàn bình thường. Điều quan trọng là bé tăng cân trong nhiều tuần, được ghi nhận dựa trên biểu đồ tăng trưởng.

Biểu đồ tăng trưởng 
Các biểu đồ tăng trưởng có một đường trung vị (đường bách phân vị thứ 50 đánh dấu giá trị trung bình của phạm vi). Ví dụ, nếu 100 bé được cân ở cùng độ tuổi, 50 bé sẽ có cân nặng nằm trên đường này, 50 bé sẽ nằm dưới.
  • Hầu hết các bé sẽ nằm trong vùng được tô đậm trong biểu đồ, mặc dù có khoảng 4% bé ra khỏi vùng này. Có biểu đồ riêng cho bé trai và bé gái bởi vì bé trai thường nặng cân hơn, cao hơn và sự phát triển của chúng cũng hơi khác so với bé gái.
  • Dù lúc mới sinh bé cân nặng bao nhiêu, bé cũng sẽ có sự phát triển đều đặn, tạo thành một đường thẳng theo đường hướng lên. Nếu đường này đột ngột rơi ra khỏi phạm vi nó có thể cảnh báo bé đang có vấn đề chẳng hạn như đang bị bệnh hoặc kén ăn.

Hội chứng trẻ sơ sinh bị đột tử trong nôi - SIDS

Hội chứng trẻ sơ sinh bị đột tử trong nôi - SIDS:

Hầu hết các bậc cha mẹ đều lo lắng về khả năng trẻ bị đột tử trong nôi (hay còn gọi là Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh: SIDS). Mặc dù khả năng xảy ra điều này là rất thấp, bạn cũng nên lưu ý những điểm sau đê giảm bớt nguy cơ cho bé.

Hội chứng trẻ sơ sinh bị đột tử trong nôi - SIDS
  • Đặt bé nằm ngửa ở cuối nôi khi ngủ.
  • Không quấn chăn và các tấm đắp quá chặt.
  • Không sử dụng loại nôi được che quá kín.
  • Không bao giờ được sử dụng loại chăn điện cho bé.
  • Không dùng gối.
  • Dùng nệm cứng và phải chắc chắn nệm vừa khít, không có khoảng hở ở thành nôi.
  • Không bao giờ được hút thuốc trong phòng bé và giữ bé cách xa những nơi có khói thuốc.
  • Phải đảm bảo nhiệt độ trong phòng bé không quá nóng và tránh mặc quần áo cho bé quá chật. Nhiệt độ phòng nên vừa phải vì nóng quá có thể đe dọa sinh mạng bé bởi vì cơ thể bé chưa đủ khả năng để tự điều hòa thân nhiệt. Điều này được cho là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra chứng đột tử vong nôi.
Những lưu tâm khi ngủ cùng bé.

Nếu bạn ngủ chung giường với bé, có vài điều bạn cần ghi nhớ để chắc rằng bé được an toàn và thoải mái.

Đầu tiên bạn phải bảo đảm rằng có đủ khoảng trống trên giường dành cho bé. Nếu giường quá chật, bé có thể bị nóng quá hoặc bạn có thể chèn ép hoặc lăn đè vào bé. Không bao giờ được cho bé nằm gối hoặc bọc bé quá chặt bằng khăn.

Điều quan trọng là bạn và chồng bạn phải luôn thức tỉnh và chú ý đến những nhu cầu của bé. Vì thế nên tránh nằm chung với bé nếu bạn quá mệt mỏi, uống thuốc ngủ hoặc mới uống rượu.

Giấc ngủ của bé trong 6 tháng đầu tiên

Giấc ngủ là nền tảng đối với sự phát triển của trẻ. Trong những tháng đầu tiên bộ não trẻ hoạt động với mức độ đáng kinh ngạc, liên tiếp phát triển và tạo những mối liên hệ mới giữa các tín hiệu với tốc độ rất nhanh. 


Giấc ngủ của bé trong 6 tháng đầu tiên

Bé liên tục ghi nhận những thông tin mới về thế giới xung quanh, để rồi trong khi ngủ các thông tin này được xử lý, lưu trữ nhằm sử dụng trong tương lai. Cơ thể bé cần thời gian nghỉ ngơi để tích trữ năng lượng, tăng cường sức mạnh và lớn lên.

Bé cần ngủ bao lâu



Trẻ ngủ nhiều hay ít là tùy theo nhu cầu của cơ thể mỗi bé - bé ngủ khi cơ thể cần nghỉ ngơi hoặc khi não đã được kích thích đủ và bé thức khi đã ngủ đủ giấc. Bạn hoặc bản thân bé không thể điều khiển được giấc ngủ. Cơ thể bé sẽ ngủ hoặc thức khi cần.

Trong những tuần lễ đầu tiên khi mới chào đời bé sẽ ăn và ngủ trong những khoảng thời gian đều đặn suốt cả ngày và đêm. Thời gian đầu bé sẽ có những giấc ngủ tương đối ngắn, điều này khiến bạn cảm thấy mệt mỏi nhưng khi lớn lên giấc ngủ của bé sẽ dài hơn.

Rất khó tiên đoán khi nào bé muốn ngủ và ngủ trong bao lâu. Thông thường một em bé sơ sinh sẽ ngủ khoảng 16 giờ mỗi ngày. Khi lớn lên thời gian ngủ sẽ giảm dần, lúc 6 tháng tuổi bé sẽ ngủ khoảng 14 giờ một ngày và có thời gian thức lâu hơn.

Mặc dù các bé sơ sinh có thể ngủ vào bất kỳ thời điểm nào dù là ngày hay đêm nhưng vào khoảng 6 tháng tuổi bé có thể tự thức giấc khi có điều gì vui hoặc kích thích bé.

Điều gì xảy ra trong khi bé ngủ

Trong khi ngủ, bé không chỉ thư giản mà còn thực hiện rất nhiều việc khác nữa. Cơ thể bé tích trữ năng lượng thu nhận được từ sữa và chuyển hóa chúng thành năng lượng cần cho sự phát triển và để sưởi ấm cơ thể. Các tế bào trong cơ thể và não nhân đôi với một tốc độ rất nhanh chóng và bé cũng đang sản xuất bạch cầu là chất cần thiết cho hệ thống miễn dịch. Đây cũng là thời điểm bé tăng trưởng nhanh nhất vì giấc ngủ giúp kích thích hooc mon tăng trưởng phát triển. Bộ não bé vẫn hoạt động trong khi bé ngủ.

Chu kỳ các giấc ngủ của bé ngắn hơn nhiều so với bạn - 47 phút đối với trẻ sơ sinh và 90 phút đối với người lớn. Trong chu kỳ này giai đoạn cử động mắt nhanh của bé (REM) chiếm 50% (dài hơn so với người lớn), cơ thể bé giật nhẹ và nhấp nháy mí mắt, điều này chứng tỏ bé đang mơ. Bé có nhiều khả năng thức giấc trong giai đoạn này. Giấc ngủ ngoài giai đoạn cử động mắt nhanh (non-REM) chiếm thời gian còn lại - giấc ngủ bình yên sâu nhất trong 4 giai đoạn và rất khó đánh thức.

Hình thành cách ngủ



Khoảng 4 đến 5 tuần tuổi, dưới sự hướng dẫn của bạn, bé bắt đầu ngủ nhiều về đêm hơn là ngày, điều này ngày càng rõ hơn trong những tháng sau đó. Lúc ban đầu, do bé chưa thể phân biệt được ngày và đêm nên bạn phải giúp bé biết điều này.

Bạn có thể giúp hình thành kiểu ngủ ngày và đêm bằng cách để bé ngủ vào ban ngày trong phòng không quá tối để bé có thể nghe các âm thanh ngày thường như điện thoại reo, tiếng máy giặt, xoong nồi hoặc tiếng người nói chuyện. Ban đêm, bạn nên đặt bé nằm trong phòng tối và yên tĩnh.

Khi bé được khoảng 2 tháng tuổi, bạn có thể bắt đầu tạo lập thói quen đi ngủ. Để bé ngủ giấc ngắn vào ban ngày, ngủ khoảng cùng một thời điểm mỗi ngày -  có thể khoảng giữa buổi sáng hoặc giữa buổi trưa - và đặt bé lên giường vào cùng thời điểm mỗi đêm. Điều này dạy cho bé biết rằng cuộc sống có nhịp điệu và tạo cho bé cảm giác an tâm và tin tưởng vào bản thân và môi trường xung quanh. Khoảng 6 tháng tuổi, bé có thể ngủ 10 giờ liên tục vào ban đêm và các giấc ngủ ngắn không liên tục (khoảng 5 giờ) vào ban ngày.

Tạo lập thói quen đi ngủ

Khi bé có ý thức hơn về những điều xảy ra xung quanh và trí nhớ đã phát triển, bé sẽ biết tiên đoán những sự kiện và làm quen với những việc xảy ra trong ngày. Vào giai đoạn này, bé thích nghi tốt với những nề nếp hằng ngày và bắt đầu thích thú với những trình tự chuẩn bị cho giấc ngủ đêm. Mỗi tối nên cố gắng thực hiện theo cùng một trình tự và cùng một thời điểm. Chẳng hạn như bắt đầu bằng việc tắm cho bé, sau đó ôm ấp vuốt ve và chơi đùa cùng bé. Cho bé bú và đặt bé vào nôi, khi bé trong trạng thái buồn ngủ nhưng còn thức, bạn có thể hát ru bé.

Đưa bé vào giấc ngủ trong khi bé còn thức cho thấy bé sẽ ngủ mà không phụ thuộc vào việc bú mẹ hay bú bình. Điều này cũng có nghĩa là nếu bé chợt thức giấc sẽ biết mình đang ở đâu và an tâm ngủ lại mà không làm phiền bạn, trừ khi bé đói hoặc có điều gì đó làm bé khó chịu.

Nếu có thể, chồng bạn cũng nên tham gia vào giờ ngủ của bé. Anh ấy có thể tắm hoặc đọc sách cho bé nghe. Điều này củng cố thêm sự gắn bó cha con, tạo niềm tin cho bé, để bé không chỉ có cảm giác an tâm và thoải mái khi dựa vào một mình mẹ.

Ngủ cùng với bé.



Những tháng đâu ở gần bé là điều quan trọng không đơn thuần do bạn phải cho bé ăn thường xuyên vào ban đêm. Bạn có thể nhận ra rằng bạn muốn ngủ cùng với bé, nhất là khi bé bú sữa mẹ. Một số nghiên cứu cho thấy rằng khi ngủ cùng mẹ sẽ có lợi cho bé hơn; nó giúp điều hòa nhịp thở và thân nhiệt bé cũng như cho sự phát triển cảm xúc của bé. Cảm giác khi được ở bên cạnh bé thật là tuyệt diệu, nó cũng giúp bạn bớt lo lắng về sức khỏe và sự bình an của bé hơn.

Bạn muốn ngủ chung với bé hay không là do bạn. Ở các nền văn hóa khác nhau bố mẹ làm điều này theo trực giác, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải làm giống như vậy. Điều quan trọng là bạn và bé đều phải có giấc ngủ thoải mái. Nếu bạn cố gắng ngủ chung với bé và nhận thấy rằng bạn và chồng dường như không được thoải mái thì đặt bé vào nôi có lẽ là cách lựa chọn tốt nhất.

Tại sao bé thức giấc



Trong 6 tháng đầu tiên, giấc ngủ của bé chưa được ổn định lắm. Ví dụ bé có thể ngủ liền một mạch 5 giờ liền trong vòng vài tuần đầu rồi đột nhiên thức giấc mỗi 2 giờ trong đêm. Giấc ngủ trong 6 tháng đầu có liên quan chặt chẽ với nhu cầu tiếp thu năng lượng của bé: thí dụ như trong giai đoạn lớn nhanh bé sẽ cần bú nhiều sữa hơn. Giấc ngủ thất thường có thể là điều bình thường với các bé ở độ tuổi này, thiết lập một kiểu ngủ linh động sẽ giúp bạn và bé vượt qua được thời điểm khó khăn này nhẹ nhàng hơn. Nhiều bé không ngủ đều đặn suốt đêm cho đến khi được 6 tháng tuổi hoặc hơn.

Đối phó với việc bé thức giấc về đêm là một việc khó khăn, nhưng bé thức giấc do nhiều lý do. Trong những ngày đầu tiên dạ dày của bé còn nhỏ nên chỉ chứa được rất ít sữa, vì vậy bé sẽ mau đói và không ngủ suốt đêm được. Nhiều yếu tố khác cũng làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của bé - những điều khó chịu có thể làm bé thức như đau bụng, tã ướt hay đau do mọc răng. Nghẹt mũi cũng có thể gây khó chịu vì khi 2 - 3 tháng tuổi bé chỉ biết thở bằng miệng. Đạt được một bước tiến mới trong quá trình phát triển cũng có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ của bé. Ví dụ, người ta nghĩ rằng kích thích tâm thần học do ngồi hay bò vào khoảng 5 đến 6 tháng tuổi có thể làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của bé, mặc dù có những giả thuyết khác cho rằng điều này làm cho bé ngủ lâu hơn.

Cho bé ăn

Cho bé ăn chiếm mất nhiều thời gian nhưng đó là cách tốt nhất để bạn và bé gắn bó với nhau. Sữa mẹ cung cấp tất cả các nhu cầu dinh dưỡng giúp bé lớn và phát triển khỏe mạnh. 

Khoảng bốn đến sáu tháng tuổi, bé sẽ có cân nặng gấp đôi so với lúc sinh và bé cần ăn thêm thức ăn đặc, giàu dinh dưỡng để cung cấp năng lượng cho nhu cầu phát triển của cơ thể bé.

Cho bú sữa mẹ



Sữa mẹ dễ tiêu và dễ hấp thu, có rất ít chất "thải". Bé dễ hấp thu sữa mẹ hơn sữa hộp. Thành phần của sữa mẹ sẽ không ngừng thích nghi với nhu cầu luôn thay đổi của bé: sữa mẹ khi bé mới sinh khác với khi bé được 6 tháng tuổi. Nguồn sữa đầu tiên bé bú sau sinh gọi là sữa non - là một chất màu vàng, dạng kem rất giàu kháng thể, vitamin và protein.

Sau ba hoặc bốn ngày mới là sữa mẹ thật sự. Mỗi khi bú, bé sẽ bú mạnh những giọt sữa đầu tiên để làm dịu cơn khát. Những giọt sữa này có nhiều lactose (đường sữa) nhưng ít béo. Khi đã thỏa cơn khát, bé sẽ chuyển sang bú chậm, nhịp nhàng, khi đó sữa có nhiều chất béo. Trong sữa có một loại enzyme đặc biệt có thể làm cho chất béo được hấp thu trong cơ thể bé, điều này cần thiết cho sự phát triển khỏe mạnh của bé.

Ích lợi của sức khỏe

Sữa mẹ vượt xa sữa pha chế theo công thức về thành phần dinh dưỡng - chứa hơn 100 thành phần không tìm thấy trong sữa bò và không thể tổng hợp nhân tạo được. Bởi vì sữa mẹ có nhiều kháng thể nên nó cực kỳ cần thiết cho hệ thống miễn dịch của bé, bảo vệ bé chống lại nhiều căn bệnh như nhiễm trùng hô hấp, tai mũi họng, tiêu hóa. Người ta tin rằng sữa mẹ cũng có thể giúp chống lại tình trạng dị ứng, chẳng hạn như hen hòa chàm, chống lại tiểu đường ở trẻ em và một số dạng ung thu.

Bắt đầu cho bú

Cho con bú là một kinh nghiệm quý giá. Tuy nhiên khi mới bắt đầu không ít bà mẹ cảm thấy bối rối. Em bé có thể bú dai dẳng hoặc bú liên tục làm đau núm vú và bạn có thể cảm thấy lo lắng vì sợ bé bú không đủ no. Bạn cũng lo lắng và khó chịu khi vú trở nên căng tức sữa. Cố gắng nghỉ ngơi, uống nhiều nước hơn bình thường và ăn uống đầy đủ là những điều mà các bà mẹ đang cho con bú nên làm. Thường thì hầu hết các bà mẹ này đã vượt qua được những khó khăn đầu tiên này và tiếp tục cho con bú thành công về sau.

Nếu bạn có bất kỳ rắc rối nào về việc cho con bú, hãy nói với bác sĩ, nữ hộ sinh hoặc chuyên viên dinh dưỡng, họ sẽ động viên, khuyến khích và tư vấn cho bạn về những điều nên làm.

Lợi ích của việc vắt sữa

Vắt và dự trữ sữa mẹ giúp bạn linh động hơn mà không làm giảm đi lượng sữa tiết ra. Điều này cũng rất có lợi cho bạn vì người khác có thể thay bạn cho bé bú để bạn có thêm giời gian nghỉ ngơi. Nó cũng giúp bé tiếp tục được bú sữa mẹ khi bạn đi làm trở lại.


Khi bạn đang cho con bú không có nghĩa là chồng bạn hay những người khác không thể cho bé bú mỗi khi cần thiết. Có nhiều loại dụng cụ vắt sữa sẵn có trên thị trường, tiện lợi để bạn vắt sữa khi cần. Bạn có thể trữ sữa trong tủ lạnh (nếu định dùng trong 24 giờ) hoặc trong tủ đông nếu dùng trong thời gian lâu hơn.
Cách cho con bú 
Khi bạn kề vú vào miệng bé, theo bản năng bé sẽ há rộng miệng và cố gắng ngậm bầu vú mẹ và bắt đầu bú. Điều này gọi là sự "cắm chốt". Bé đã từng thực hiện động tác bú trước đó rồi - bé đã tập mút ngón tay từ khi bé còn trong bụng mẹ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mọi thứ đều dễ dàng khi cho bú lần đầu. Học cách cho bú - dù là cho bú mẹ hay bú bình -  đều đòi hỏi cần phải có thời gian, cần nhiều ngày hoặc thậm chí nhiều tuần để cả bạn và bé đều cảm thấy hài lòng.

Cho bé bú bình

Đối với các bà mẹ không thể cho con bú sữa mẹ, trên thị trường hiện nay đã có sẵn rất nhiều các công thức sữa đáp ứng cho nhu cầu của bé. Hầu hết các loại sữa pha theo công thức này được làm từ sữa bò với thành phần gồm các protein được biến đổi, hydrat cacbon, chất béo, bổ sung vitamin và muối khoáng, chứa một tỷ lệ protein tương tự như trong sữa mẹ. Một số công thức sữa còn được cho thêm vào các axit béo chuỗi dài, mặc dù trong các dạng sữa tự nhiên người ta không tìm thấy nó.

Không nên dùng sữa bò cho bé dưỡi một tuổi, bởi vì nó có nồng độ protein và muối cao làm bé khó tiêu, ít vitamin C và sắt, đó là những chất cần thiết để bé phát triển khỏe mạnh. Tuy nhiên, sữa bò có thể được trộn với những thức ăn đặc đầu tiên của bé chẳng hạn như bột, cháo khi bé được khoảng 6 tháng tuổi.

Có một số công thức sữa được chế biến từ đậu nành với các protein được biến đổi, vitamin và muối khoáng. Loại sữa này thường được sử dụng thay thế cho các loại sữa thông thường nếu bé không dung nạp với protein có trong sữa bò (gặp trong khoảng 2% em bé).

Nếu bé bú bình, một trong những lợi ích rõ ràng nhất là bạn có thể chia sẻ việc cho bú với chồng bạn hoặc các thành viên khác trong gia đình và người chăm sóc bạn để bạn có nhiều thời gian nghỉ ngơi

Khi nào nên cho bé ăn đặc



Thức ăn đặc là nền tảng trong sự phát triển  của bé. Về thể chất bé không thể ăn thức ăn đặc trước 4 tháng tuổi. Cho đến thời điểm này, hệ tiêu hóa của bé chưa trưởng thành đủ mạnh để có thể phẩn hủy được thức ăn và cơ hàm của bé cũng chưa có các hoạt động để đưa thức ăn từ phía trước ra sau vòm miệng. Ngoài ra thận của bé cũng chưa đủ khả năng để xử lý thức ăn.

Mỗi bé là một cá nhân riêng biệt và việc bắt đầu cho thức ăn đặc cũng khác nhau đối với từng bé, vì vậy bạn nên cho bé ăn vào một thời điểm nào đó trong khoảng từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6. Nếu bé trên 4 tháng tuổi và thưởng cảm thấy đói nhiều hơn trước, thức nhiều lần hơn trong đêm để đòi bú, trở nên kích thích khi thấy người khác ăn hoặc cố với lấy thức ăn khi để ở gần bé thì đó có thể là những dấu hiệu báo cho bạn biết đã đến lúc bé cần phải cho ăn thêm thức ăn đặc.

Tập cho ăn từ từ



Trong hai tuần đầu, mỗi ngày bé chỉ cần ăn thêm một bữa bột cùng một hoặc hai muỗng cà phê nước ép trái cây (như táo hoặc lê chẳng hạn) là đủ. Trong giai đoạn này, bạn nên tập cho bé làm quen từ từ với thức ăn đặc. Nếu bạn cho ăn khi bé quá đói bé sẽ không thích và không chịu hợp tác để thử vì vậy bạn hãy chọn thời điểm thích hợp giữa 2 lần cho bú. Đừng ép bé ăn - nên tạo không khí thoải mái, vui vẻ vào giờ ăn chứ không phải là một cuộc thử thách.

Tăng dần lượng thức ăn đặc cho đến khi đạt được ba lần một ngày đồng thời cũng tăng dần độ đặc của nước ép trái cây. Tránh cho bé ăn các loại thức ăn làm từ lúa mì, sữa (ngoại trừ sữa mẹ hoặc sữa pha chế theo công thức), đậu, trứng, nước chanh, thức ăn béo hoặc cay trước khi bé được 6 tháng tuổi. Những loại thức ăn này có thể ảnh hưởng trên dạ dày hoặc gây ra dị ứng cho bé nếu được cho ăn quá sớm.

Mặc dù việc bắt đầu cho ăn thức ăn đặc là một điều thú vị nhưng nó có thể cũng sẽ rất khó khăn. Đây là lần đầu tiên bé được thử loại thức ăn khác với sữa, có khẩu vị mới nên cần phải dành thời gian để cho bé làm quen. Đầu tiên, bé sẽ học cách mút từ muỗng, khi đã trở nên quen với nhiều loại thức ăn hơn bé sẽ bắt đầu dùng lợi để nghiền. Tập cho bé ăn cần nhiều thời gian và lòng kiên nhẫn và trong thời gian đầu sẽ có nhiều thức ăn bị rơi vãi ra ngoài. Đừng lo lắng vì lượng thức ăn vào miệng bé quá ít - sữa vẫn là nguồn dinh dưỡng chính ở thời điểm này.

Mọc răng và cho ăn 
Mặc dù hầu hết trẻ thường không mọc răng trong 6 tháng đầu tiên, tuy nhiên một vài bé có thể bắt đầu sớm. Mọc răng có thể làm cho bé khó chịu và gây cản trở cho việc ăn uống. Bé có vẻ còn muốn bú bình hay bú mẹ thêm nhưng lại nhả núm vú ra ngay vì bé cảm thấy khó chịu. Bé cũng không tỏ vẻ thích thú với các thức ăn đặc.
Bé sẽ thích ăn trở lại khi răng đã mọc lên nhưng nếu bé vẫn tỏ vẻ không muốn ăn (kể cả sữa thông thường) trong hơn một ngày thì bạn nên đưa bé đến bác sĩ để chắc chắn rằng bé không bị bệnh gì thêm.

Ăn và các kỹ năng xã hội

Ăn là một thói quen xã hội và khi đã ngồi được vững bé có thể tham gia vào bữa ăn cùng với gia đình. Điều này tạo cơ hội cho bé phát triển nhân cách khi bé khám phá và biểu lộ những điều bé thích và không thích.

Trẻ có thể bắt chước mà không cần suy nghĩ. Bé sẽ nhìn cách bạn ăn và cố gắng bắt chước theo, bé sẽ cầm muỗng lên và tự đưa vào miệng. Mặc dù còn vụng về nhưng điều quan trọng là bé học được một kinh nghiệm mới, biểu hiện một bước nhảy vọt trên con đường trở nên người độc lập.

Các nghiên cứu cho thấy việc tập thói quen ăn uống tốt từ sớm sẽ rất có lợi cho trẻ. Vì vậy nên tránh cho trẻ ăn thức ăn có thêm đường vì sẽ tạo cho trẻ quen với khẩu vị quá ngọt có thể gây ra sâu răng sau này.

Kỹ năng giao tiếp của bé mới sinh

Bản thân trẻ khi sinh ra đã có khuynh hướng muốn giao tiếp và nhanh chóng phát triển nhiều cách "nói chuyện khác nhau". 


Bé có nhiều kiểu khóc, mỗi kiểu biểu thị một nhu cầu khác nhau. Cho đến hai tháng tuổi, bé sẽ cười và phát ra những âm thanh bi bô để diễn tả niềm vui và trò chuyện với bạn. Bé bắt đầu thiết lập nền tảng giao tiếp của bé bằng ngôn ngữ.

Khóc


Cách giao tiếp hiệu quả nhất của bé với bạn trong những tháng đầu là khóc. Bé sẽ khóc rất nhiều bởi vì đó là cách duy nhất để bé thông báo cho bạn biết bé muốn gì và cảm thấy thế nào; có nghĩa đó là cách nói chuyện đầu tiên của bé. Ngay cả tiếng khóc đầu tiên sau sinh cũng đóng vai trò giao tiếp quan trọng: nó báo hiệu cho bác siex hoặc nữ hộ sinh biết rằng phổi của bé đã chứa đầy khí và bé đã có thể thở được.

Thời gian đầu, có thể bạn sẽ nghĩ mỗi lần bé khóc, tiếng khóc đều như nhau nhưng dần dân rồi bạn sẽ nhận ra những tiếng khóc có sự khác nhau và chúng cũng truyền tải những nhu cầu khác nhau của bé. Mặc dù mỗi đứa trẻ có tiếng khóc riêng biệt, nhưng nghiên cứu cho thấy rằng khóc do đói thường có các âm điệu giống nhau và thường kèm theo những tiếng nấc. Ngược lại khóc do khó chịu thường có khuynh hướng ít đều đặn hoặc ít nhịp nhàng, và có thể có những khoảng nghĩ dài hơn xen kẻ vì bé đợi sự đáp ứng của bạn. Khóc vì đau có cường độ mạnh hơn nhiều và thường sẽ làm bạn chạy ngay lại với bé.

Khi bạn bắt đầu hiểu tiếng khóc của bé với những âm thanh, nhịp điệu khác nhau, bạn có thể nhận biết được nhu cầu của bé một cách nhanh chóng và hiểu quả để cho ăn khi bé đói và xoa dịu khi bé cảm thấy khó chịu. Dần dần theo thời gian bé sẽ giảm dần nhu cầu khóc để giao tiếp.

Ngôn ngữ cơ thể 
Khi trẻ thức, bé sẽ luôn truyền những cảm xúc của mình đến người chăm sóc bằng nhiều cách tinh tế. Giao tiếp bằng mắt là thí dụ điển hình nhất của điều này: trẻ muốn bạn nhìn vào mắt bé và nhìn bạn chăm chú khi bạn và bé cùng trò chuyện.
Vặn mình và đá chân là những biểu hiện mạnh mẽ khác có ý nghĩa giao tiếp: bé có thể đá chân và vặn mình nếu cảm thấy khó chịu và cần sự quan tâm chú ý, trong khi vào lúc khác những cái vặn mình và co tay chân này có thể là biểu hiện của niềm vui, sự thích thú khi nghe giọng nói của bạn hoặc nhìn thấy gương mặt bạn.
Khoảng 6 tháng tuổi bé sẽ quay mặt đi chỗ khác khi không thích hay không quan tâm một điều gì đó, hướng nhìn chăm chú về cái bé muốn và cười là một cách biểu hiện niềm vui hay chờ một sự công nhận.

Những điều bạn có thể làm

Những đứa trẻ ít khóc thường được cho là ngoan ngoãn nhưng một đứa trẻ hay khóc thì cũng không hẳn là hư - bé chỉ khóc để báo cho bạn biết là bé cảm thấy khóc chịu với điều gì đó. Cách tốt nhất mà bạn có thể làm là đáp ứng lại ngay nhu cầu của bé. Các nghiên cứu cho thấy rằng, nhìn chung những bé khi khóc được đáp ứng ngay sẽ có khuynh hướng an tâm hơn và gắn bó với cha mẹ hơn những bé khi khóc bị bỏ một mình. Bé sẽ học được các cách thức khác để giao tiếp mà không cần khóc sớm hơn các bé kia. Bằng cách đáp ứng lại bé nhanh chóng, bạn đã "nói" cho bé biết rằng bé đã thật sự giao tiếp thành công, bạn đã hiểu được điều bé muốn truyền tải và bé có thể tin cậy ở bạn. Thậm chí sẽ tốt hơn nếu bạn hiểu được cách thức biểu lộ của bé (như ọ ẹ, vặn người,...), bất cứ lúc nào bạn cũng có thể can thiệp trước khi bé cất tiếng khóc.

Ôm ấp bé, trò chuyện, vuốt ve nựng niu sẽ tạo cho bé cảm giác an tâm. Nếu bạn cho bé biết rằng bạn sẽ luôn có mặt mỗi khi bé cần, bé sẽ cảm thấy được yêu thương, nuôi nấng và chăm sóc tốt.

Khi bé khóc quá nhiều

Thật khó xử trí một đứa trẻ hay quấy khóc nhưng bạn nên nhớ rằng bé không cố ý khóc để làm phiền lòng bạn. Hãy nhờ bạn bè và những người thân giúp đỡ để bạn có thời gian nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe. Hãy mang bé đi dạo hoặc đi thăm bạn bè. Trên hết, cố gắng đừng đổ lỗi cho mình. hay cho bé - đối với bé, khóc là điều tự nhiên, nó cũng tự nhiên như nỗi buồn khi bạn không thể làm gì được để an ủi cho bé.

Mặc dù đôi khi cũng có những đứa trẻ bình thường hay khóc lâu không chịu nín, nhưng nếu bạn nghĩ rằng việc bé quấy khóc có liên quan đến sức khỏe thì hãy đưa bé đến cho bác sĩ thăm khám để tìm hiểu vấn đề.

Giao tiếp ngôn ngữ


Trẻ sớm hiểu được sức mạnh của ngôn ngữ và bắt đầu học nói từ ngay sau khi ra đời. Bạn sẽ thấy rằng bé cố gắng đàm thoại rất sớm, khó lòng ngắt lời bé được. Bé rất vui khi bạn lặp lại những tiếng kêu đặc biệt của bé. Những thay đổi tinh tế này đóng vai trò rất quan trọng. Chúng dạy cho trẻ những khái niệm đầu tiên của ngôn ngữ và đàm thoại và cũng quan trọng trong quá trình gắn bó giữa mẹ và con.

Học ngôn ngữ

Ngay từ lúc bé nhìn bạn, bé chăm chú quan sát những biểu lộ trên khuôn mặt bạn và nghe những âm thanh phát ra khi bạn trò chuyện. Bé sẽ nhanh chóng biết cách bắt chước như thể trả lời bạn bằng cách cử động môi hoặc các cơ ở mặt. Nghe và bắt chước là hai phương tiện chính để thu nhận ngôn ngữ và bé hoàn toàn có khả năng làm hai đều này.

Cho đến khi bé được hai hoặc ba tháng tuổi, kỹ năng này đã phát triển tới mức bé có thể phát ra những âm thanh đầu tiên, những tiếng đặc biệt khi bạn nói chuyện với bé hoặc khi bé muốn thu hút sự chú ý của bạn. Khi bạn "oa oa" lại với bé, bắt chước những âm thanh của bé theo kiểu "đàm thoại" hai chiều, bạn đang cho bé thấy sức mạnh của giao tiếp ngôn ngữ và sự tự biểu hiện.

Cho tới 5 hoặc 6 tháng, kỹ năng bắt chước của bé có thể đạt đến trình độ bi bô thành môt "câu" dài. Vào lúc 6 tháng bé có thể biết cách phát âm những phụ âm bằng cách nhép môi. Bé có thể sử dụng những âm thanh này để hình thành nên tiếng "mẹ" và "ba" và sẽ sử dụng giọng điệu để biểu thị thái độ - la to lên hoặc kéo dài khi bé vui sướng.

Giúp trẻ học nói

Càng tham gia nhiều vào quá trình đàm thoại với trẻ, bạn sẽ càng giúp bé nhanh biết cách dùng từ để biểu lộ. Có nhiều cách để làm điều này (và bạn sẽ tự mình tìm ra một số cách). Dưới đây là một số gợi ý mà bạn có thể thử:

Nhìn trẻ khi nói chuyện, để bé biết những lời của bạn là dành cho bé. Mặt đối mặt với bé để bé nhìn cách bạn phát ra âm thanh.

Khuyến thích bé tham gia vào cuộc trò chuyện với bạn. Khi nói chuyện, hãy dành thời gian để bé "trà lời" bạn. Điều này chiếm một vài giây hoặc thậm chí lâu hơn, nên bạn phải kiên nhẫn.

Nói chuyện với bé càng nhiều càng tốt. Mô tả những hành động hàng ngày - nói những điều như "mẹ sẽ đặt con vào nôi" để giúp bé làm quen với các tên các đồ vật.

Hạn chế những tiếng ồn xung quanh xuống mức tối thiểu. Tắt tivi hoặc đài đi để bé tập trung chú ý.

Lặp lại với vé càng nhiều lần càng tốt. Bé thường thích sự lặp lại và cần nghe một từ nhiều lần trước khi bắt đầu có thể hiểu được nghĩa của chúng.

Hát ru hoặc đọc những bài thơ đơn giản, lặp lại nhiều lần. Điều này làm cho trẻ quen với nhịp điệu của ngôn ngữ.

Thư giản. Học cách nói chuyện là kết quả tự nhiên của quá trình giao tiếp hàng ngày giữa bạn và trẻ, vì vậy đừng quá nóng vội!

Tầm quan trọng của việc đọc sách 
Ba tháng đầu
Đọc sách cho trẻ nghe là một cách giao tiếp tốt làm cho trẻ quen với ngôn ngữ hằng ngày. Đọc sách không bao giờ là quá sớm đối với trẻ. Chọn những sách có những bức tranh lớn, in rõ và không có quá nhiều chi tiết.
Bé có thể nhận thức ngày càng nhiều hơn khi khả năng tập trung phát triển sau 8 tuần đầu. Bé thích xem ảnh hoặc hình vẽ những em bé khác và rất quan tâm đến các khuôn mặt, đặc biệt là nếu chúng có mắt to và đang cười. Bạn hãy chỉ vào các bức tranh và giải thích về chúng cho bé nghe. Khuyến khích các thành viên khác trong gia đình cũng làm như vậy. 
Ba đến sáu tháng
Một khi độ tập trung của bé đã phát triển, bé bắt đầu hiểu và phát âm nhiều hơn, giới thiệu những quyển sách có nhiều chi tiết hơn cho bé. Bé sẽ quan tâm đặc biệt đến những quyển sách có các hình vẽ nhiều màu sắc, với những vật hằng ngày mà bé thấy chẳng hạn như hoa hay các con vật nuôi. Đọc truyện cho bé nghe nếu bạn thích - bé sẽ nghe âm giọng và nhịp đọc của bạn khi đang ngồi trong lòng bạn.
Tìm những quyển sách mỏng, với nhiều tranh màu để bé cầm, lật xem và khám phá chúng. Bạn cũng có thể tìm mua những quyển sách bằng nhựa để bé có thể xem chúng khi tắm.

Tính cách của trẻ trong 6 tháng đầu đời

Mặc dù các em bé có nhiều đặc điểm và hành vi giống nhau nhưng giữa chúng luôn có sự khác biệt ngay cả trong giai đoạn rất sớm của cuộc đời. 



Về mặt di truyền, con bạn là một cá nhân riêng biệt, có một kinh nghiệm riêng trong bụng mẹ, trong lúc sinh và trong những tháng đầu đời. Tất cả những kinh nghiệm này góp phần quan trọng trong cách bé ứng xử với thế giới bên ngoài và với bạn, góp phần quyết định đặc điểm và tính cách của riêng bé.

Ảnh hưởng của di truyền

Ngay từ thời điểm thụ tinh, các đặc điểm về hình thể và nhiều đặc điểm khác đã được định hình. Bé nhận một nửa bộ gien từ mẹ (thông qua trứng) và một nửa từ cha (thông qua tinh trùng). Nhưng do mỗi trứng và tinh trùng tự nó cũng chứa một bộ gien khác nhau nên bé sẽ có một vẻ bên ngoài, tính cách và tài năng riêng biệt.


Các bé sẽ có bộ gien khác nhau rất nhiều trừ khi chúng là sinh đôi cùng trứng. Nhiều đặc điểm thể chất của bé được quyết định bởi các gien này, như màu tóc và màu mắt, nhóm máu, giới tính, chiều cao, hình dạng cơ thể.

Người ta cho rằng một số đặc điểm hoặc tính cách của trẻ cũng được quyết định bởi gien - ví dụ như tính nhút nhát hay thông minh có thể được di truyền. Mặc dù cấu trúc di truyền có thể tạo nên trẻ là người bạo dạn hay nhút nhát, thiên về học thuật hay thể thao, trầm tĩnh hay nóng nảy nhưng quá trình nuôi nấng cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của trẻ.

Sự khác biệt giới tính

Hầu hết các chuyên gia tin rằng sự khác biệt giới tính, cũng như các đặc điểm về tính cách là sự phối hợp phức tạp của các đặc điểm di truyền (bản chất) và những hành vi học được (nuôi dưỡng).


Sự mong đợi của xã hội có ảnh hưởng lên cách đối xử với đứa trẻ. Dù cho cha mẹ có cố gắng đối xử tốt và công bằng đến thế nào đi nữa, những ảnh hưởng tinh tế của xã hội cũng sẽ can thiệp phần nào vào hành vi của trẻ. Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng các bé trai khi được cho mặc quần áo con gái sẽ được những người mà bé chưa gặp trước đây đối xử giống như với con gái (đối xử nhẹ nhàng hơn và được cho búp bê, gấu nhồi bông để ôm ấp). Những bé trai này khi mặc quần áo con trai sẽ được đối xử bạo dạn hơn so với con gái và được cho những thứ "đồ chơi của con trai" (các đồ chơi ồn ào, xe hơi, xe lửa...).

Khác biệt trong sự phát triển não

Trong khi những ảnh hưởng bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bé, một số nghiên cứu cho thấy rằng cấu trúc của não cũng tham gia vào sự phát triển giới tính. Ví dụ như não phải điều khiển các hoạt động thể chất, phát triển hơn ở bé trai, trong khi não trái điều khiển các cử động tinh tế và ngôn ngữ sẽ phát triển sớm hơn ở bé gái.


Mặc dù các yếu tố sinh học có liên quan, nhưng chúng không bao giờ được xem là yếu tố hạn chế khả năng của trẻ. Trẻ em là những cá nhân riêng biệt và có khả năng học hỏi vượt lên sự quy định của các yếu tố sinh học.

Tính khí của bé

Nhiều yếu tố góp phần vào sự hình thành đặc điểm và tính khí của trẻ. Di truyền, giới tính, môi trường xã hội, số anh chị em ruột... đóng vai trò lớn. Dĩ nhiên hầu hết các yếu tố này không nằm trong tầm kiểm soát của bạn, nhưng bạn phải ý thức được rằng bạn không thể chọn tính cách của bé.


Nhưng những ảnh hưởng quan trọng nhất chính là mối quan hệ của bé với bạn trong những năm tháng đầu đời. Bạn không thể quyết định được tính cách của bé nhưng cách bạn đối xử với bé sẽ có ảnh hưởng nhiều tới sự hình thành nhân cách.

Dù nhân cách của bé có thế nào đi nữa thì tình yêu và sự quan tâm của bạn cũng đều hữu ích. Bằng cách theo dõi các cử chỉ của bé, chăm sóc tốt, đáp ứng lại mọi nhu cầu khi bé còn nhỏ, bạn có thể giúp bé hình thành nên cảm giác tự ý thức về bản thân, có ý nghĩa vô giá trong suốt cuộc sống về sau. Cảm giác tự tin và an tâm không những là vốn quý trong cuộc sống mà còn là nền tảng vững chắc cho sự phát triển.

Nên nhớ rằng nhân cách trẻ vào độ tuổi này sẽ không ngừng phát triển. Cố gắng không áp đặt nhân cách cho bé vì điều này sẽ ảnh hưởng lên cách bạn đối xử với bé. Không ai tiên đoán được bé sẽ trở thành người thế nào, nhưng bạn sẽ thích thú khám phá tất cả các đặc điểm nổi bật trong nhân cách bé.

Lợi ích của việc xoa bóp cho bé

Xoa bóp là một cách biểu lộ tuyệt vời tình yêu thương mà bạn dành cho bé - giúp thắt chặt thêm mối liên hệ của bạn với bé., làm yên lòng khi bé quấy khóc, thúc đẩy sự phát triển cả về mặt thể chất lẫn tinh thần và giúp bé hình thành thật nhiều niềm tin.


Lợi ích của việc xoa bóp

Các cử chỉ vuốt ve âu yếm tạo cho trẻ cảm giác an toàn và được yêu mến, hình thành lòng tự trọng và niềm tin. Ngoài ra, xoa bóp cũng đem lại cho trẻ nhiều lợi ích về mặt thể chất và tinh thần.

  • Xoa bóp giúp bạn giao tiếp với bé, hiểu được hành vi và cử chỉ của bé. Điều này đặc biệt hữu ích nếu bạn và con mình có sự khởi đầu chậm trong trường hợp bé phải chăm sóc đặc biệt.
  • Xoa bóp giúp giảm đau, thư giản, dễ tiêu và xoa dịu khi bé buồn bã.
  • Xoa bóp có thể cải thiện tuần hoàn và kích hoạt hệ miễn dịch do giúp bạch huyết luân chuyển đi khắp cơ thể và lọc sạch những chất có hại.
  • Xoa bóp giúp tăng trương lực cơ và giúp các khớp của bé trở nên mềm dẻo. Do đó nó đặc biệt hữu ích với trẻ sinh thiếu tháng.
  • Xoa bóp kích thích các hooc môn tăng trưởng. Nghiên cứu cho thấy những trẻ được xoa bóp nhiều sẽ tăng trưởng tốt hơn - dường như có một mối liên hệ sinh học giữa vuốt ve, xoa bóp và sự phát triển của bé.

Khi nào nên bắt đầu xoa bóp cho bé.

Bạn có thể bắt đầu xoa bóp cho bé trong khoảng hai tuần đầu sau sinh - nhờ đó, bạn sẽ hiểu hơn và gia tăng lòng tin của bạn khi chăm sóc bé. Chọn thời điểm xoa bóp giữa các bữa ăn khi bé tỉnh táo và thực hiện trong phòng ấm, nơi yên tĩnh và không có gió lùa.

Bắt đầu thực hiện

Chọn loại dầu dành cho trẻ, loại có thể hấp thu được qua da. Xoa đều lên khắp tay bạn khi xoa bóp để các động tác trở nên mềm mại và dịu êm.

Cởi quần áo bé và đặt bé nằm trên một khăn tắm ấm và mềm. Nếu muốn, bạn có thể bắt đầu xoa bóp từng phần cơ thể bé trước. Sau đó, tăng dân lên khi bạn cảm thấy tự tin. Trong những tuần đầu, nhiều bé không thích khi bị cởi hết quần áo. Nếu con bạn nằm trong trường hợp này, chỉ nên cởi từng phần để tránh cho bé bị cảm giác bị lột trần. Thí dụ, để lại áo lót và tập trung xoa bóp chân ngay sau khi bạn thay tã hoặc tắm cho bé. Sau đó mặc quần cho bé rồi tiếp tục xoa bóp phần trên của cơ thể.

Kỹ thuật xoa bóp

Trước hết, đặt bé nằm ngửa và xoa bóp phía trước cơ thể. Làm từ đầu xuống, bằng các động tác xoa bóp nhẹ nhàng, đối xứng hai bên thân người. Cẩn thận quan sát phản ứng của bé, dừng lại nếu bé bắt đầu tỏ vẻ khó chịu - ví dụ trườn ra khỏi bàn tay bạn.

Lúc đầu, nên xoa bóp thật nhẹ nhàng rồi tăng dần lực xoa bóp nếu bạn cảm thấy bé tỏ vẻ thích thú, tuy nhiên chú ý đừng để bé bị đau. Khi thực hiện trên những vùng có những diện tích nhỏ, chẳng hạn như các ngón chân, chỉ nên thực hiện bằng ngón tay của bạn. Ở những vùng khác, như lưng chẳng hạn, bạn có thể dùng cả hai bàn tay để thao tác.

Đầu



Xoa bóp nhẹ nhàng vùng đầu bé bằng cách xoa tròn (tránh vị trí thóp), rồi xoa xuống hai bên gò má. Xoa bóp nhẹ nhàng vùng trán, làm từ trong ra ngoài, đến lông mày và tai.

Cổ, vai và cánh tay



Xoa bóp vùng cổ từ trên xuống dưới, rồi đến vai, bắt đầu từ cổ hướng ra ngoài. Bạn có thể di chuyển từ từ xuống cánh tay, nhẹ nhàng ấn bóp chúng khi di chuyển. Tiếp đến là xoa bóp cổ tay, bàn tay và ngón tay, xoa bóp mỗi ngón tay bé bằng đầu ngón tay và ngón cái của bạn.

Ngực và bụng



Xoa bóp nhẹ nhàng ngực bé theo chiều từ trên xuống dưới theo đường cong của xương sườn. Xoa vùng bụng bé bằng các ngón tay của bạn theo chuyển động xoay tròn, theo chiều kim đồng hồ và hướng từ rốn ra ngoài.

Cẳng chân, bàn chân và ngón chân



Xoa bóp từ trên xuống dưới, từ đùi, đầu gối đến cẳng chân, nhẹ nhàng ấn bóp khi di chuyển. Xoa bóp cổ chân, bàn chân từ gót đến ngón, sau đó tập trung vào từng ngón.

Lưng



Sau khi bạn đã xoa bóp ở phía trước cho bé hãy lật bé lại và bắt đầu xoa bóp vùng lưng, cũng bắt đầu từ đầu trở xuống

Cách tạo mối gắn kết với bé sau khi sinh

Gắn kết là một quá trình vô cùng đặc biệt, bạn và bé sẽ cùng nhau trải qua những kinh nghiệm tuyệt vời nhờ đó hình thành tình yêu thương gia đình. 

Mối quan hệ này có thể được hình thành ngay sau khi bạn nhìn thấy bé hoặc có thể cần đến vài tháng. Mỗi khi bạn và bé giao tiếp với nhau mối quan hệ này lại càng mạnh thêm. Gắn kết không đơn thuần chỉ là sự vun đắp về mặt tình cảm, quá trình phát triển lâu dài của bé cũng rất cần đến nó, giống như cần đến thực phẩm và hơi ấm vậy.


Cách tạo mối gắn kết

Nếu cuộc chuyển dạ diễn ra suôn sẻ và bạn được bồng bé ngay sau khi sinh, bé có thể sẽ đáp ứng lại tình cảm của bạn ngay lập tức bằng cách ngậm lấy bầu vú bạn, tỏ vẻ thích thú khi được bạn vuốt ve và bạn sẽ cảm thấy tràn đầy hạnh phúc. Bé sẽ cảm nhận được sự gần gũi và hơi ấm của mẹ, lắng nghe giọng bạn nói, nhìn vào mắt bạn và có thể tận hưởng hương vị sữa mẹ lần đầu tiên. Nhờ vào tất cả những điều này, bé sẽ cảm thấy an tâm và thoải mái.

Gần gũi

Một trong những cách hiệu quả nhất giúp bạn tạo sự gắn kết với bé là thông qua việc tiếp xúc trực tiếp da kề da với bé. Điều này mang đến cho bạn và bé cảm giác ấm áp, an toàn và khỏe mạnh. Sự gần gũi này cũng rất cần thiết cho sự phát triển cả về mặt tinh thần và thể chất của bé. Các cuộc nghiên cứu đã cho thấy quá trình tiếp xúc trực tiếp, trong đó có kiểu "chăm sóc kangaroo", giúp các trẻ sinh non trưởng thành mạnh khỏe hơn.

Hãy dành những khoảng thời gian yên tĩnh để bạn có thể ôm bé vào lòng, tận hưởng cảm giác gần gũi. Tắm bé nhẹ nhàng bằng nước ấm giữ bé chắc chắn và dùng dầu em bé để nhẹ nhàng xoa bóp bé.

Trò chuyện



Bé rất thích thú khi được nghe bạn trò chuyện. Ngay cả một em bé mới sinh cũng sẽ đáp ứng lại khi nghe giọng nói của bạn, quay đầu về phía bạn và biểu lộ niềm vui thích bằng cách ngọ ngoạy hoặc nhúc nhích hai chân. Bạn nói gì cũng được, với bé không quan trọng, bé thích được bạn chú ý và phản ứng của bé sẽ khiến bạn cũng cảm thấy vui sướng.

Khi trò chuyện bạn nên nhìn vào mắt bé. Ánh mắt là phương tiện giao tiếp rất hiệu quả, nó giúp bạn và bé hiểu nhau hơn cũng như tốt cho quá trình hình thành các kỹ năng xã hội.

Để tạo mối gắn kết cần phải có thời gian.

Gắn kết là một quá trình, trước khi bạn tạo nên mối quan hệ yêu thương với bé có thể cần đến vài tuần hoặc thậm chí là vài tháng, nhất là khi bạn có một cuộc chuyển dạ khó khăn hoặc con bạn cần được chăm sóc đặc biệt. Điều quan trọng là bạn không nên quá bận tâm về những cảm xúc mà bạn nghĩ rằng có hoặc không nên có, bạn cứ để nó phát triển tự nhiên và nhớ rằng dù cho mối gắn kết có xảy ra tức thì hay dân dần thì cuối cùng nó cũng sẽ đến trong quá trình bạn chăm sóc bé.

Nhận giúp đỡ đúng lúc



Có đến 50 phần trăm những người mới làm mẹ, thời gian đầu đã gặp khó khăn khi tạo mối gắn kết với đứa con nhỏ bé của mình. Nếu bạn gặp phải tình huống này, hãy nhờ một người nào đó giúp bạn giảm bớt căng thẳng - có thể là chồng, mẹ hoặc người bạn thân - người luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn khi cần và cũng sẽ phụ giúp bạn được trong việc chăm sóc bé.

Người cha tạo sự gắn kết ra sao?
Nhiều người lần đầu tiên được làm cha có cảm xúc dành cho con rất mạnh mẽ, thậm chí là đam mê, trong khi đó một số người khác có thể phải cần thêm một chút thời gian. Ngày càng có nhiều người cha đảm nhận vai trò làm cha năng động và háo hức tạo sự gắn kết với trẻ không thua kém gì người mẹ. Bạn nên khuyến khích chồng mình thật nhiều trong vai trò mới, thời gian anh ấy dành cho con càng nhiều thì mối gắn kết càng thêm mạnh mẽ.

Chăm sóc trẻ sơ sinh tốn rất nhiều sức lực, do đó bạn nên cố gắng giảm bớt các công việc không cần thiết, đón nhận sự giúp đỡ của bạn bè cũng như gia đình. Ban ngày nên tranh thủ ngủ khi bé ngủ, cẩn thận với các cơn chán nản hậu sản. Thường khoảng ba đến bốn ngày sau khi sinh nhiều bà mẹ đã gặp phải những cảm giác chán nản trong thời gian ngắn. Cảm giác này là do sự thay đổi hooc môn gây ra và thường chỉ kéo dài trong vài ngày.

Chứng trầm cảm sau sinh

Trong một số trường hợp, những người mẹ mắc chứng trầm cảm sau sinh gặp khó khăn khi tạo mối gắn kết với bé. Các dấu hiệu của tình trạng này gồm mỏi mệt, bứt rứt, chán nản, cảm thấy bị quá tải và không thể chịu đựng được trong khoảng thời gian dài. Khi bạn nghĩ rằng mình đang gặp phải tình trạng này, hãy gặp bác sĩ hoặc nhân viên y tế cũng như nhờ người thân, bạn bè giúp đỡ. Điều này rất quan trọng cho sự hồi phục của bạn. Dành càng nhiều thời gian cho bé càng tốt. Âu yếm sẽ kích thích phát triển các hoocmon "làm mẹ", nó có tác dụng giúp thư giản tốt.


Tạo mối gắn kết với trẻ sinh non

Mặc dù việc nuôi dưỡng trong khoa chăm sóc đặc biệt là rất quan trọng đối với sự sống còn của trẻ, tuy nhiên với bạn đó là thời gian rất khó chịu. 

Ngoài mối quan tâm hàng đầu là sức khỏe của bé, bạn có thể bỏ lỡ kinh nghiệm được bồng ẵm, cho bú và gắn kết với bé ngay sau khi bé mới chào đời.


Các cuộc nghiên cứu cho thấy người mẹ càng tiếp xúc nhiều với con thì đứa bé càng sống khỏe mạnh, vậy bạn hãy cố gắng luôn ở bên bé những lúc có thể, âu yếm, vuốt ve hoặc vỗ về bé bằng chính giọng nói của bạn dù là chỉ trong những khoảng thời gian ngắn vẫn tạo nên sự khác biệt rất lớn.

Hãy tạo mối gắn kết hiệu quả với bé khi còn nằm trong lồng ấp bằng cách:

  • Ngay sau khi sinh hãy yêu cầu được gặp bé càng sớm càng tốt và cố gắng năng động khi chăm sóc bé.
  • Dành cho bé càng nhiều thời gian càng tốt trong phòng chăm sóc, cho dù bạn không thể bồng bé, bạn vẫn có thể vuốt ve bé thông qua các lỗ trên lồng ấp.
  • Cho bé bú khi thuận lợi hoặc vắt sữa sẵ để nhờ y tá ở đây cho bé bú, điều này giúp kích thích vú bạn tiết sữa nhờ đó bạn có thể cho bé bú mẹ sau này khi bé khỏe.
  • Cố gắng không để các máy móc trong phòng chi phối và làm bạn hoảng sợ.
  • Cần hiểu rõ vì sao con bạn phải được chăm sóc đặc biệt, nó sẽ giúp bạn giảm bớt lo lắng.
  • Tìm kiếm càng nhiều lời khuyên và sự hỗ trợ càng tốt. Trò chuyện với y ta, bác sĩ và nữ hộ sinh về những điều bạn còn thắc mắc và cả cách tốt nhất để bạn chăm sóc bé.

Hiệu quả của việc vỗ về

Người mẹ này bắt đầu tạo mối gắn kết với đứa con sinh non của mình bằng cách vuốt ve đầu và chân bé thông qua các lỗ hổng được thiết kế đặc biệt trên thành lồng ấp.

Trẻ sinh non và trẻ sinh đôi

Số trẻ sinh non - tức là được sinh ra trước tuần thứ 37 của thai kỳ - chiếm khoảng 11,5% trong số trẻ sơ sinh tại các nước phát triển. 

Nếu con bạn rơi vào trường hợp như vậy, bé sẽ không dễ dàng thích nghi với môi trường bên ngoài, do đó bé sẽ được đưa đến khoa chăm sóc đặc biệt, nơi có đủ phương tiện giúp bé tồn tại và phát triển khỏe mạnh.

Trẻ sinh non bị ảnh hưởng ra sao?


Trẻ sinh non và trẻ sinh đôi

Càng ra đời sớm thì bé càng yếu đuối. Nếu được sinh quá sớm, da bé trở nên trong suốt do quá mỏng manh, lúc đó ngay cả nhiệt độ bình thường trong phòng cũng làm cho bé bị lạnh cóng. Do đó, bé cần phải được đưa ngay vào lồng ấp - ở nhiệt độ được điều chỉnh thích hợp để giữ ấm cho bé. Tiếng khóc của bé sẽ rất yếu ớt và có thể kèm theo khó khăn khi thở.

Nguyên nhân là do sinh sớm nên hệ hô hấp của bé không có đủ thời gian để phát triển hoàn chỉnh. Nếu bé ra đời sớm hơn 2 tháng, những khó khăn khi hô hấp có thể tác động đến các cơ quan khác làm bé không nhận đủ nguồn dưỡng khí cần thiết cho cơ thể. Để ngăn không cho điều nay xảy ra, bé sẽ được cung cấp thêm oxy hoặc có thể tạm thời được cho dùng các thiết bị đặc biệt để trợ thở.

--> Tạo mối gắn kết với trẻ sinh non

Tác động đến sự phát triển

Sự phát triển của trẻ sinh non có thể khởi đầu chậm và kéo dài do đó không nên đem bé so sánh với các trẻ sinh đủ tháng khác. Khi bạn đánh giá sự phát triển, điều đầu tiên bạn cần làm là điều chỉnh tuổi của bé bằng cách tính nếu bé được sinh đúng ngày thì bé sẽ đạt bao nhiêu tháng tuổi. Chẳng hạn như, nếu bé sinh sớm hơn 2 tháng, bé không thể đạt đến những cột mốc phát triển như trẻ bình thường được ba tháng tuổi cho đến khi bé được 3 tháng tuổi cộng thêm vào 2 tháng nữa. Tại các buổi kiểm tra sức khỏe định kỳ, nhân viên y tế sẽ tính theo tuổi đã được điều chỉnh của bé. Khi bé được khoảng chín tháng đến 1 tuổi, bé có thể sẽ bắt kịp với các trẻ được sinh đủ tháng.

Sinh đôi hoặc nhiều hơn



Nhờ vào các tiến bộ trong việc hỗ trợ sinh sản, các trường hợp song thai cũng như đa thai đang ngày càng gia tăng. Các trường hợp này thường sinh sớm, do đó trẻ thường nhỏ và nhẹ cân hơn so với các trẻ được sinh đủ tháng và cần được chăm sóc đặc biệt trong vài tuần lễ đầu tiên.

Sự phát triển của trẻ sinh đôi

Thỉnh thoảng trẻ sinh đôi phát triển không theo cách thức bình thường như đối với các trẻ sinh một khác. Dường như một số trẻ sinh đôi chia sẻ cho nhau các kỹ năng, một bé rất thành thạo trong việc vận động như điều khiển tay chân còn bé kia lại hoàn thiện tốt hơn trong khả năng tiếp xúc cũng như trong giao tiếp xã hội.

Mấu chốt trong vấn đề phát triển của các bé chính là mối tương tác với bạn. Tuy nhiên do bạn phải mất nhiều thời gian cho chúng, bạn có thể gặp khó khăn khi muốn cung cấp đầy đủ các kích thích tích cực thông qua việc chơi đùa và âu yếm bé. Giống như mọi đứa trẻ khác hãy cố gắng thường xuyên đưa các bé ra ngoài chơi, việc tiếp xúc với con người, âm thanh, cảnh vật mới tự nó đã là những kích thích.

Nhằm giảm bớt áp lực, bạn nên chấp nhận những lời đề nghị giúp đỡ. Sắp thời gian chơi đùa cố định với các bé mỗi ngày, những lúc bạn có thể hoàn toàn thảnh thơi để chăm sóc cho từng bé. Hãy chọn những thời điểm sao cho cũng có một người khác ở nhà vào lúc đó để bạn có thể chăm sóc từng bé một. Ngay cả khi bạn chỉ dành năm phút để chơi đùa với mỗi bé thì cũng có hiệu quả rất lớn.

Cuộc kiểm tra sức khỏe đầu tiên của bé

Giờ đây bạn đã tận mắt nhìn thấy được bé và luôn muốn bảo đảm rằng bé ở trong tình trạng sức khỏe tối ưu nhất. Sau khi chào đời bé sẽ được một bác sĩ chuyên khoa kiểm tra kỹ lưỡng để đánh giá tình trạng sức khỏe tổng quát cho bé.

Cuộc kiểm tra sức khỏe đầu tiên của bé

Cuộc kiểm tra sức khỏe đầu tiên của bé

Bước đầu tiên, bác sĩ sẽ nói với bạn biết về cách thức cho bé ăn và ngủ, bao nhiêu lâu nên thay tã cho bé một lần và bé sẽ phản ứng ra sao. Bác sĩ cũng có thể sẽ hỏi về những cảm giác của bạn, liệu bạn có thắc mắc gì về sức khỏe của bé không. Sau đó họ sẽ cân, đo bé và thực hiện một số cuộc đánh giá.
  • Bác sĩ sẽ dùng ống nghe để kiểm tra tim và phổi cho con bạn.
  • Vòm miệng cũng được kiểm tra nhằm phát hiện tình trạng hở hàm ếch.
  • Bác sĩ sẽ khám bụng cho bé nhằm kiểm tra các cơ quan bên trong như gan và thận, xem kích thước và vị trí của chúng có bình thường hay không. Bác sĩ cũng sẽ bắt mạch ở bẹn cho bé.
  • Hệ sinh dục cũng được khảo sát để loại trừ điều bất thường nếu có. Nếu là bé trai, bác sĩ sẽ khám xem tinh hoàn có xuống bìu hay chưa.
  • Bác sĩ sẽ lật bé lại và kiểm tra cột sống của bé, đồng thời cũng đánh giá đường hậu môn xem có thông suốt hay không.
  • Chân của bé cũng được kiểm tra nhằm bảo đảm chúng có độ dài thích hợp, không mắc tật bàn chân vẹo.
  • Khớp hông cũng được khảo sát nhằm loại trừ trường hợp bị lệch khớp háng bất thường.
Kiểm tra phản xạ của bé

Bác sĩ cũng khảo sát về một số đáp ứng phản xạ ở bé. Điều này cho phép kết luận chính xác tình trạng sức khỏe tổng quát ổn định và hệ thần kinh trung ương hoạt động tốt.

Phản xạ là những phản ứng bản năng giúp trẻ tồn tại được bên ngoài tử cung trong những tuần đầu tiên. Khi các kỹ năng tâm lý và thể chất phát triển thì những phản xạ này sẽ mất dần đi. Bé có thể thực hiện thêm nhiều cử động tự chủ, có ý thức. Người ta chỉ khảo sát một số phản xạ chọn lọc trong hơn 70 phản xạ sơ sinh. Nếu con bạn sinh thiếu tháng, khi đánh giá phải lưu ý rằng bé sẽ không đáp ứng như trẻ được sinh đủ tháng.

Phản xạ cầm nắm


Khi ngón tay của bác sĩ chạm vào lòng bàn tay bé, các ngón tay của bé nhắm chặt vào.
Phản xạ cầm nắm của bé rất mạnh mẽ
Bác sĩ sẽ kiểm tra phản xạ cầm nắm của bé bằng cách đặt ngón tay của mình vào lòng bàn tay bé để xem bé có tự động nắm lại hay không. Nhiều trẻ có phản xạ này mạnh đến nỗi bạn có thể nhấc được người bé lên theo lực kéo của ngón tay (tuy nhiên bạn không nên thử làm điều này với bé). Bạn cũng có thể để ý thấy khi bạn gãi lòng bàn chân bé thì các ngón chân bé sẽ co lại như thể đang bám lấy vật gì đó.

Phản xạ cầm nắm mất đi khi bé được khoảng 5 tháng tuổi, mặc dù phản xạ co ngón chân vẫn còn tồn tại cho đến khi bé được một tuổi.

Phản xạ bú mút, quay đầu và ọe


Khi ngón tay của bác sĩ đưa vào miệng,
bé mút một cách tự động cho thấy bé không gặp khó khăn gì khi bú mẹ hoặc bú bình
Các phản xạ cơ bản nhất gồm có bú mút, nó giúp bé bú đươc để tồn tại. Bạn có thể thấy bé tự mút ngón tay của mình hoặc ngón tay của bạn. Khi bạn chạm đầu vú hoặc núm vú cao su vào má bé, bé sẽ tự động quay đầu lại, phản xạ này gọi là phản xạ quay đầu. Quá trình nuốt vào và ọe ra cũng mang tính phản xạ, nó giúp làm thông đường hô hấp cho bé khi cần thiết.

Phản xạ Moro

Còn gọi là phản xạ "giật mình". Bác sĩ sẽ cởi trần bé ra, dùng tay đỡ vùng gáy của bé, sau đó đột ngột thả cho đầu bé hơi rớt ra sau một chút, điều này làm bé dang rộng hai tay và chân, các ngón duỗi thẳng như thể bé đang cố tìm một vật nào đó vào để bám tiếp. Tiếp đó bé sẽ từ từ vòng tay quanh thân mình, các ngón co lại và đầu gối co về phía bụng. Cả hai bên thân mình phải đáp ứng đồng thời và đều đặn. Khi bé khoảng hai tháng tuổi, phản xạ này sẽ biến mất.

Phản xạ bước

Bác sĩ sẽ xốc hai vai bé lên, giữ bé ở tư thế đứng thẳng, khi hai chân bé chạm vào bề mặt cứng bé sẽ có cử động như đang bước đi. Phản xạ này sẽ biến mất khi bé được khoảng một tháng và không liên quan gì đến quá trình tập đi. Kỹ năng đứng vững và bước đi chỉ có thể thực hiện được khi bé khoảng 12 tháng tuổi - lúc hệ xương và khớp đã phát triển hơn và bé làm chủ được việc giữ thăng bằng cơ thể.

Phản xạ trườn

Khi được đặt nằm sấp, bé sẽ tự động ở tư thế giống như là đang trườn, mông nâng cao và gối co sát bụng. Khi bé đạp chân, bé có thể di chuyển tới trước giống như tư thế trườn. Phản xạ này sẽ biến mất khi bé có khả năng nằm thẳng mà không phải co chân (thường vào khoảng 2 tháng tuổi).

Bé có thể làm được gì từ khi mới sinh ra

Các em bé khi ra đời đã được trang bị sẵn những kỹ năng phi thường, những điều này giúp bé tồn tại được trong môi trường mới. 

Bé có thể làm được gì từ khi mới sinh ra

Mặc dù còn hạn chế trong kiểm soát cơ thể cũng như các cử động nhưng khả năng tiếp nhận của bé rất nhạy bén, bé được chuẩn bị để thu nhận mọi thông tin cần thiết.


Bé giao tiếp với xung quanh bằng tiếng khóc và cử động của mình.

Đó là cách duy nhất để bé cho bạn biết cảm giác của mình. Khi bị đói, khó chịu hoặc cô đơn, bé sẽ khóc để báo hiệu cho bạn. Bạn sẽ sớm nhận biết và đáp ứng phù hợp với từng kiểu tiếng khóc khác nhau của bé.

Bé có thể nhìn thấy.

Gần như ngay sau khi chào đời, các bé đã có thể mở to mắt, cho dù bé không mở được lâu. Dù trong giai đoạn này bé không thể nhìn rõ những vật ở xa, tuy nhiên bé có thể tập trung vào những vật ở cách bé khoảng 20 - 25 cm và rất dễ bị thu hút bởi những vật có ánh sáng và sắc thái tương phản (chẳng hạn khuôn mặt bạn) cũng như những vật chuyển động.

Bé có thể nghe.

Âm thanh cũng có thể kích thích bé nhất là âm điệu giọng giói của bạn do giờ đây bé không còn bị lớp nước ối ngăn cản nữa. Ở giai đoạn này, bé rất nhạy cảm với tiết tấu và nhịp điệu của ngôn ngữ. Âm thanh thú vị nhất tất nhiên là giọng nói của chính bé.

Bé có thể ngửi.

Khứu giác của bé đặc biệt phát triển sau khi sinh. Khi bé đã nhận biết được mùi của cơ thể bạn, bé sẽ dùng nó để tìm bạn bằng cách quay đầu về hướng có bạn.

Các đặc tính của bé mới sinh

Em bé có nhiều điều có thể khiến bạn ngạc nhiên. Chẳng hạn phần lớn các em bé khi mới sinh ra đều trông có vẻ không được sạch sẽ, da nhăn nheo và hơi vàng. 


Các đặc tính của bé mới sinh
Các đặc tính của bé mới sinh
Những điều bạn thấy là rất bình thường, chỉ trong vòng vài ngày khi cơ thể bé phát triển và trở nên thích ứng hơn với môi trường mới, dáng vẻ bên ngoài sẽ nhanh chóng thay đổi. Vợ chồng bạn sẽ có nhiều dịp thích thú khi cùng chiêm ngưỡng bé lớn lên và phát triển và cũng có nhiều dịp để trải qua nhiều tình cảm mới đầy thi vị.

Đầu của em bé



Hình dáng đầu của bé thường không tròn trịa trừ khi bé sinh mổ. Xương sọ của bé do các xương mềm tạo thành để giúp bé dễ dàng di chuyển qua đường sinh nở. Do tính mềm dẻo này nên ngay sau khi sinh đầu bé sẽ trông có vẻ hơi méo hoặc nhọn ra trước, nhất là trong những trường hợp bé được trợ sinh bằng giác hút hoặc bằng kẹp forcep. Tuy nhiên, điều này không làm tổn hại đến bé, trong quá trình phát triển đầu bé sẽ trở nên đều đặn hơn.

Thóp là vùng da mềm mại trên xương xọ. Tại điểm này bạn có thể nhìn thấy được cả mạch đập. Nếu quá trình sinh diễn ra quá nhanh, trên mặt bé có thể xuất hiện nhiều mạch máu li ti và đầu bé có thể hơi bằm do phải chịu áp lực khi sinh.

Khuôn mặt bé



Do trấn động trong cuộc sinh, khuôn mặt và 2 mắt bé có thể bị phù nhẹ. Do bé phải chịu đựng tình trạng co thắt trong một khoảng thời gian nên bé có vẻ "nhăn nheo" là điều bình thường. Vài tuần sau đó, khuôn mặt "nhăn nheo" sẽ dần biến mất khi bé có nhiều không gian hơn để phát triển.

Làn da của bé

Khi sinh ra, cơ thể bé được bao phủ bởi một lớp chất nhờn giống như kem gọi là chất gây. Chất này giúp bảo vệ ngăn không cho làn da của bé tiếp xúc trực tiếp với nước ối trong tử cung. Nó sẽ được nữ hộ sinh lau sạch khi sinh ra.

Lúc đầu làn da của bé có thể trông hơi vàng. Dần dần nó sẽ trở nên hồng hào khi hô hấp của bé trở nên đều đặn và hệ tuần hoàn thích nghi với môi trường mới. Do lớp mỡ dưới ra chưa được tích lũy nhiều nên bạn cảm thấy da bé có vẻ "lỏng lẻo" hoặc hơi nhăn nheo. Nó sẽ trở nên bụ bẩm và hồng hào trong vòng vài tuần sau đó.

Trong hai hoặc ba tuần đầu tiên, làn da của các bé sơ sinh rất thường gặp tình trạng khô hoặc dễ bong tróc ra từng mảng và có nhiều chấm trắng gọi là "chấm sữa", chúng là những tuyến tiết chất nhờn phì đại và sẽ tự biến mất trong một thời gian ngắn sau đó khi hệ thống tuần hoàn của bé phát triển hơn.

Tóc của bé



Khi còn trong bụng mẹ, cơ thể bé được một lớp lông mịn bao phủ gọi là lông tơ. Một số bé, nhất là những bé sinh non vẫn còn mang lớp lông này khi sinh ra. Đây là điều bình thường, lớp lông này sẽ tự rụng đi trong vài tuần đầu tiên.

Dù cho đầu bé có rất nhiều tóc hoặc không có sợi nào, tóc dày, mịn, thẳng hoặc xoắn tít... đều là những điều tự nhiên. Lớp tóc này sẽ tự rụng dần trong năm đầu tiên và lớp tóc mới sẽ mọc lên thay thế, đôi khi lớp tóc mới này lại khác biệt hoàn toàn so với lớp tóc mới sinh ra (về màu sắc, tính chất...).

--> Bé có thể làm được gì từ khi mới sinh ra

Các đặc tính khác của bé mới sinh

Những "điều ngạc nhiên" khác ở các bé sơ sinh có thể gồm: kích thước các cơ quan sinh dục, nó trông có vẻ hơi sưng và to so với kích thước của cơ thể bé, nguyên nhân là do trước khi sinh, hoocmon thai kỳ trong cơ thể bạn đã thấm qua lá nhau và ảnh hưởng đến bé. Tình trạng sưng sẽ giảm bớt sau vài ngày. Cuống rốn, nơi người ta cắt dây rốn có thể làm bạn thấy lạ. Nó sẽ nhanh chóng chuyển thành màu đen, khô đi và tự rụng trong vài tuần đầu tiên.


Click quảng cáo giùm em

BACK TO TOP